+ All Categories
Home > Documents > TÀI LIỆU - Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Chư Prông

TÀI LIỆU - Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Chư Prông

Date post: 16-Mar-2023
Category:
Upload: khangminh22
View: 0 times
Download: 0 times
Share this document with a friend
35
UBND HUYỆN CHƯ PRÔNG HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP PBGDPL HUYỆN TÀI LIỆU PHỔ BIẾN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM; TẢO HÔN Chư Prông, tháng 01 năm 2021
Transcript

UBND HUYỆN CHƯ PRÔNG HỘI ĐỒNG PHỐI HỢP PBGDPL HUYỆN

TÀI LIỆU

PHỔ BIẾN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM; TẢO HÔN

Chư Prông, tháng 01 năm 2021

2

A. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM XÂM HẠI TÌNH DỤC TRẺ EM

1. Thực trạng

Luật Trẻ em năm 2016 quy định rõ cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và các cá nhân có trách nhiệm thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được sống an toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em… Mặc dù vậy, hiện nay, tình trạng tội phạm xâm hại tình dục trẻ em diễn biến hết sức phức tạp với nhiều thủ đoạn mới.Nó không chỉ gây tổn thương thể chất và những hậu quả nhất thời mà còn có thể ảnh hưởng lâu dài.Những hậu quả lâu dài biểu hiện từ nhẹ đến những rối loạn rất nặng.Những rối loạn này không chỉ liên quan đến sức khỏe sinh sản mà còn liên quan đến khả năng học tập, khả năng hòa nhập cũng như đối với sức khỏe tâm thần của trẻ. Trong thời gian gần đây, trên cả nước xảy ra hàng loạt vụ việc xâm hại tình dục trẻ em, gây bức xúc dư luận và gây hoang mang cho nhiều bậc phụ huynh. Theo thống kê của Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an, mặc dù chỉ là phần nhỏ so với thực tế nhưng mỗi năm trung bình có 1.600 - 1.800 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, trong số 1.000 vụ xâm hại tình dục, số vụ mà trẻ em là nạn nhân chiếm đến 65%, đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 12-15 (chiếm 57,46%), tuy nhiên số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại là vấn đề rất đáng báo động, chiếm tới 13,2%.

Tại các tỉnh Miền trung và Tây nguyên :Theo kết quả báo cáo của TAND các tỉnh Miền Trung - Tây Nguyên năm 2016 và 2017, tình hình tội phạm xâm hại trẻ em có chiều hướng gia tăng hoặc/và bị xâm hại nhiều lần nhưng gia đình và nhà trường không nắm bắt được, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Từ ngày 01/10/2015 đến 30/9/2017, TAND các tỉnh, thành phố khu vực Miền Trung - Tây Nguyên đã thụ lý mới trên 70 vụ án xâm hại tình dục trẻ em. Trong đó, các tỉnh khu vực Tây Nguyên chiếm tỷ lệ cao nhất như Đắk Lắk 23 vụ, Gia Lai 19 vụ, Phú Yên thụ lý tăng so với năm trước là 11 vụ.

Trên địa bàn huyện Chư Prông, theo Kiến nghị số: 01/KN-VKS-HS ngày 16/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện thì tình hình tội phạm về xâm hại tình dục trẻ em có diễn biến phức tạp, các vụ việc có chiều hướng gia tăng, tính chất, mức độ phạm tội nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.

Trước thực trạng nêu trên, Nghị quyết 121/2020/QH14 của Quốc hội khóa XIV về việc tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính

3 sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em đã đánh giá: Thời gian qua, hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung, phòng, chống xâm hại trẻ em nói riêng được ban hành tương đối đầy đủ, đồng bộ, kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát yêu cầu thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác bảo vệ trẻ em nói chung, phòng, chống xâm hại trẻ em nói riêng. Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em đã đạt được những kết quả tích cực. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, kiến thức, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em được quan tâm hơn, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của gia đình, nhà trường, cơ quan, tổ chức và toàn xã hội trong việc phòng, chống xâm hại trẻ em, đồng thời giúp trẻ em nâng cao hiểu biết, kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ bản thân. Việc áp dụng các biện pháp hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em có nguy cơ bị xâm hại và trẻ em bị xâm hại được chú trọng hơn. Các vụ việc, vụ án xâm hại trẻ em cơ bản được xử lý kịp thời, nghiêm minh, góp phần phòng ngừa vi phạm, tội phạm xâm hại trẻ em.

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em còn một số hạn chế, bất cập. Một số quy định của Luật Trẻ em và các luật khác có liên quan chưa được hướng dẫn kịp thời, đầy đủ gây khó khăn trong tổ chức thực hiện; chế tài quy định trong một số nghị định xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến phòng, chống xâm hại trẻ em còn nhẹ, chưa bảo đảm tính răn đe. Bạo lực đối với trẻ em xảy ra trong gia đình ít được phát hiện, xử lý. Việc bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng là yêu cầu bức thiết nhưng pháp luật quy định chưa đầy đủ, kịp thời. Nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chậm được đổi mới, chưa phù hợp với một số nhóm đối tượng, đặc điểm địa bàn dân cư, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.Công tác xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh nhằm phòng, chống xâm hại trẻ em ở nhiều địa phương chưa được quan tâm đúng mức; chưa có biện pháp hiệu quả để phòng ngừa, giảm thiểu việc trẻ em lao động trái quy định của pháp luật; nhiều nơi thiếu các điểm vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao cho trẻ em. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý các hành vi xâm hại trẻ em ở một số địa phương chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời, hiệu quả chưa cao. Trong thời gian tới, nếu không có các biện pháp phòng ngừa hiệu quả thì tình hình xâm hại trẻ em sẽ vẫn diễn biến phức tạp và có chiều hướng tăng.

Những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Một số cấp ủy, chính quyền địa phương và cơ quan chức năng chưa nhận thức đầy đủ, chưa thực sự quan tâm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em nói chung, phòng, chống xâm hại trẻ em nói riêng. Công tác quản lý nhà nước về phòng, chống xâm

4 hại trẻ em có mặtcòn chưa hiệu quả. Một số cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền chưa làm hết trách nhiệm được giao. Công tác phối hợp giữa chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức và gia đình về phòng, chống xâm hại trẻ em trong nhiều trường hợp chưa thực chất và chưa hiệu quả. Mặt trái của kinh tế thị trường, thiếu việc làm, đời sống khó khăn, tác động mặt trái tiêu cực của internet, mạng xã hội... cũng là những nguyên nhân làm phát sinh các vụ, việc xâm hại trẻ em. Nhân lực làm công tác trẻ em còn thiếu về số lượng, kiêm nhiệm nhiều việc và thường xuyên thay đổi, một bộ phận còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác. Ngân sách, cơ sở vật chất dành cho công tác bảo vệ trẻ em, trong đó có phòng, chống xâm hại trẻ em còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu.

2. Nguyên nhân

- Nguyên nhân chủ quan từ phía người xâm hại: do chịu ảnh hưởng từ các văn hóa phẩm đồi trụy (như phim, ảnh, sách báo có nội dung không lành mạnh); do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, tha hóa; do nghiện sex; do trình độ văn hóa thấp, thiếu hiểu biết và thiếu tôn trọng pháp luật của người xâm hại (nhất là đồng bào dân tộc thiểu số). Một số trường hợp người xâm hại là người chưa đủ 18 tuổi nhưng không có sự quan tâm chăm sóc, giáo dục của cha mẹ, người lớn, nhà trường và xã hội.

- Nguyên nhân khách quan từ phía nạn nhân và gia đình nạn nhân: do sự chủ quan của gia đình nạn nhân khi phó mặc các cháu cho nhà trường mà không để ý đến sự phát triển tâm sinh lý của các cháu ở lứa tuổi dậy thì, hoặc chủ quan đối với những mối nguy hại ngay bên cạnh các cháu mà cha mẹ thiếu quan tâm, định hướng cho các cháu. Đối với nạn nhân trong các vụ án “Giao cấu với trẻ em”, các nạn nhân bắt đầu bước vào tuổi mới lớn, các cháu luôn cần có sự quan tâm, định hướng của gia đình nhưng do nhận thức chưa đầy đủ, do tâm lý e ngại, do điều kiện sống khó khăn… nên các bậc phụ huynh thường ít quan tâm, không trực tiếp trao đổi với các cháu về các nguy cơ có thể xảy ra. Các cháu có tâm lý muốn khám phá cơ thể mình và trong một số trường hợp, muốn khẳng định mình không chỉ bằng việc học hành thi cử mà khẳng định bằng cách có người yêu sớm. Trong các vụ án này, nạn nhân thường là người chủ động trong việc yêu cầu bị cáo quan hệ tình dục với mình, do tò mò, do muốn khẳng định mình hoặc do sự thôi thúc của bản năng... Các cháu thường dậy thì sớm, cơ thể phát triển tương đối hoàn chỉnh nhưng sự phát triển về nhận thức còn hạn chế. Một phần các cháu do tò mò nên vô hình trung đã bị lợi dụng mà không hay biết và trở thành nạn nhân của loại tội phạm nguy hiểm này. Do đó, việc giáo dục nhận thức cho các cháu là vô cùng quan trọng và các bậc cha mẹ phải chủ động trong việc giáo dục giới tính cho trẻ em từ khi các cháu còn nhỏ.

5

Đối với nạn nhân trong các vụ án “Dâm ô đối với trẻ em”, gia đình nạn nhân thường chủ quan đối với những mối nguy hại xung quanh các cháu. Thủ phạm có thể là người quen, hàng xóm hay một số người mà ngay cả gia đình nạn nhân cũng không ngờ tới như những người có mối quan hệ ruột thịt hoặc có mối quan hệ nuôi dưỡng (pháp luật hình sự quy định đây là tình tiết tăng nặng “có tính chất loạn luân”và tình tiết “Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh” trong một số điều luật của BLHS).

3. Giải pháp

3.1. Đối với các cơ quan, đơn vị, địa phương

a) Rà soát, kịp thời trình cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách, pháp luật có liên quan đến công tác bảo vệ trẻ em, phòng, chống xâm hại trẻ em phù hợp với tình hình thực tiễn đơn vị, địa phương.

b) Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ trẻ em, kiến thức kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em.

- Tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ trẻ em, phòng, chống xâm hại trẻ em với nội dung, hình thức phong phú, bảo đảm thiết thực, phù hợp với từng nhóm đối tượng, trong đó chú trọng giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, trợ giúp pháp lý cho trẻ em, hướng dẫn trẻ em nhận biết các nguy cơ bị xâm hại, kỹ năng phòng, tránh, bảo vệ bản thân.

- Xây dựng chuyên trang, chuyên mục với thời lượng và khung giờ phù hợp với trẻ em; đăng, phát tin, bài, phóng sự, hướng dẫn kiến thức, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em; đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp, phương pháp tuyên truyền đặc biệt tăng thời lượng thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, phòng, chống xâm hại trẻ em trên môi trường mạng.

- Tăng cường tuyên truyền về công tác bảo vệ trẻ em và phòng, chống xâm hại trẻ em trên hệ thống thông tin cơ sở thông qua các hình thức: Hệ thống loa truyền thanh, cổng thông tin điện tử và các hình thức thông tin cơ sở khác.

- Huy động, thu hút sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội nhằm tập trung nguồn lực và thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền.

6

- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiến thức, kỹ năng sống, kỹ năng tự bảo vệ cho học sinh, chú trọng nhóm học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, học sinh bán trú, nhóm trẻ có nguy cơ bị xâm hại; lồng ghép nội dung hướng dẫn học sinh sử dụng mạng internet an toàn, hiệu quả trong chương trình giáo dục tin học; trang bị kỹ năng xử lý tình huống cho giáo viên trong phòng, chống xâm hại trẻ em; cung cấp thông tin, kỹ năng phòng, chống xâm hại trẻ em cho cha, mẹ học sinh.

- Đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh trong gia đình nhằm giảm thiểu tình trạng bạo lực gia đình, tảo hôn, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và những hủ tục lạc hậu đối với trẻ em; trang bị cho gia đình kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, phòng ngừa bạo lực, xâm hại trẻ em, trách nhiệm phát hiện, thông báo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em.

- Tăng cường bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về bảo vệ trẻ em cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; bồi dưỡng, tập huấn nhân viên công tác xã hội; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng giải quyết các vụ án xâm hại trẻ em cho điều tra viên, thẩm phán; nâng cao năng lực, kỹ năng cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý cho trẻ em bị xâm hại, cho cán bộ y tế trong chăm sóc, tư vấn sức khỏe đối với trẻ em bị xâm hại.

c) Thu thập, quản lý chặt chẽ, hiệu quả số liệu trẻ em và tình hình xâm hại trẻ em trên địa bàn.

d) Tăng cường công tác phối hợp liên ngành giữa các cơ quan, tổ chức, đoàn thể trong việc thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến bảo vệ trẻ em, phòng, chống xâm hại trẻ em đặc biệt trong việc hỗ trợ, can thiệp các trường hợp trẻ em bị xâm hại; xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa 03 môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường và xã hội và giữa các cấp, các ngành với trẻ em nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để thu thập, báo cáo về tình hình thực hiện quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em đặc biệt quan tâm công tác phòng, chống xâm hại trẻ em.

e) Tăng cường công tác nắm bắt tình hình, chủ động phát hiện những hành vi xâm hại trẻ em. Kịp thời tiếp nhận, xác minh, điều tra, kết luận, xử lý nghiêm minh các đối tượng vi phạm theo quy định pháp luật, đồng thời tiến hành can thiệp, hỗ trợ hiệu quả trẻ em, bảo vệ an toàn cho trẻ em là nạn nhân

7 bị xâm hại; bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ em, không để nạn nhân tổn thương trong quá trình điều tra, xử lý đối tượng vi phạm.

g) Thường xuyên kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em, chăm sóc trẻ em, đặc biệt phát huy vai trò, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ các thôn, làng, tổ dân phố. Bảo đảm kinh phí, huy động các nguồn lực tham gia vào hoạt động trợ giúp, chăm sóc, bảo vệ trẻ em.

h) Tiếp tục xây dựng, duy trì, phát triển hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em đáp ứng yêu cầu công tác bảo vệ trẻ em; bảo đảm các trẻ em có nguy cơ bị xâm hại, trẻ em bị xâm hại được áp dụng biện pháp hỗ trợ, can thiệp.

i) Tăng cường các biện pháp bảo đảm an ninh nơi công cộng, nhất là các khu vực trường học, khu vui chơi của trẻ em.

k) Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra về công tác phòng, chống xâm hại trẻ em. Xử lý nghiêm trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức, cá nhân khi có hành vi xâm hại trẻ em, bao che, chậm trễ, cố tình kéo dài các vụ việc xâm hại trẻ em.

3.2. Đối với gia đình, cộng đồng và xã hội

Mọi người dân nâng cao nhận thức và thực hiện đầy đủ các hướng dẫn về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em, cụ thể là:

a) Xâm hại tình dục trẻ em là gì? + Xâm hại tình dục xảy ra khi một người lớn tuổi hơn, khỏe mạnh hơn sử

dụng quyền lực, sức mạnh hoặc dụ dỗ, có thể là tiền bạc, vật chất của mình, lợi dụng sự ngây thơ, lòng tin và sự tôn trọng của trẻ để ép buộc các em tham gia vào hành vi tình dục. Kẻ xâm hại có thể sử dụng nhiều cách : lừa gạt, dụ dỗ, mua chuộc, bắt cóc, đe dọa hay trấn áp về tinh thần hoặc thể chất đối với trẻ để thực hiện hành vi xấu xa của mình.

+ Xâm hại tình dục có thể xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau, ví dụ như có những hành vi tự kích thích tình dục trước mặt trẻ, cố tình phô bày những bộ phận kín của cơ thể; Hôn hít hay sờ mó vào bộ phận kín của trẻ hoặc bắt trẻ phải làm như vậy với mình; Đưa dương vật, ngón tay hay bất kỳ vật gì vào âm đạo hay hậu môn của trẻ; Cho trẻ xem sách báo, phim ảnh có tính kích dục

c) Những kẻ xâm hại tình dục trẻ em là ai? - Những kẻ xâm hại tình dục trẻ em trông bề ngoài cũng giống như những

người bình thường khác - Trong nhiều trường hợp, kẻ xâm chính là người quen thân, thậm chí thành

viên trong gia đình, bà con hay người sống trong cùng một khu phố, làng xóm với các em ;

8

- Ngoài ra, đó cũng có thể là những thanh niên mới lớn, nghiện ngập ma túy, rượu bia ;

- Đôi khi, kẻ xâm hại lại là những người bị bệnh tâm thần, mất ý thức về những việc mình đang làm ;

- Cũng có khi kẻ xâm hại lại là người hoàn toàn xa lạ với trẻ nhưng đã lợi dụng hoàn cảnh và thời cơ thuận lợi để thực hiện hành vi độc ác.

(Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy rằng phần lớn những kẻ xâm hại cũng đã từng là nạn nhân của sự xâm hại trẻ em).

d) Xâm hại tình dục trẻ em có thể là? - Do tình trạng kinh tế khó khăn dẫn đến những căng thẳng về tâm lý, các tiêu

cực của kinh tế thị trường. - Do không có công ăn việc làm. - Do bệnh tật ; rối loạn tâm thần, sự cô lập… - Do say rượu, nghiện ngập, sử dụng ma túy. - Do xem các sách báo, phim ảnh đồi trụy, kích dục. - Do sự giáo dục chưa đúng đắn và chưa đầy đủ của các bậc cha mẹ (cha mẹ

cư xử thô bạo với con cái, không gương mẫu, chưa hướng dẫn cho con biết tự bảo vệ mình…).

(Mặt trái xã hội và đôi khi cũng có thể do các em, nhất là các em gái đang ở hoặc đã qua giai đoạn dậy thì vô tình phô bày cơ thể; hoặc do mặc trang phục quá thoải mái...)

e) Vì sao con, em bạn có thể bị xâm hại tình dục? - Những kẻ xâm hại tình dục thường tìm đối tượng trong số trẻ em mà chúng

quen biết, có khi ngay trong gia đình. Trong những trường hợp này, chính sự gần gũi đã tạo nên sự ham muốn xâm hại ở những kẻ này, đồng thời lại làm cho trẻ quá tin tưởng vào kẻ xâm hại mà không có sự đề phòng nào. Nó cũng làm cho kẻ xâm hại dễ có thời cơ thực hiện ý định của mình.

- Trẻ em thường tin cậy ở người lớn, do đó, dễ bị lừa gạt, mua chuộc. Do còn nhỏ tuổi và yếu đuối, các em cũng dễ bị đe dọa hay trấn áp về tinh thần và thể lực.

- Những kẻ xâ hại tình dục biết việc chúng đang làm là sai và do vậy, chúng tìm mọi cách để che đậy hành vi của mình. Nếu mọi người không phát hiện sớm, chúng có thể lặp lại hành vi đó với chính đứa trẻ đó hoặc với các trẻ khác.

- Ngoài ra, bản thân những kẻ xâm hại tình dục có thể cũng đã từng bị xâm hại khi còn nhỏ và chúng lặp lại những hành động đó để quên đi cảm giác yếu đuối mà chúng cảm thấy khi chúng là nạn nhân của sự xâm hại. Tuy nhiên, điều này không thể biện minh cho hành động của chúng và cũng không có nghĩa là tất cả những người bị xâm hại trước đây cũng đều sẽ trở thành kẻ xâm hại tình dục sau này.Trong thực tế, nhiều người bị xâm hại trước đây nay lại là những người tích cực tham gia các hoạt động phòng chống xâm hại và bảo vệ trẻ em.

9

g) Hậu quả của xâm hại tình dục trẻ em: Xâm hại tình dục có ảnh hưởng rất xấu đến quá trình phát triển về thể chất và

tâm lý bình thường của trẻ.

* Hậu quả về thể chất: - Tổn thương bộ phận sinh dục, nhất là ở trẻ còn nhỏ. - Mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS, có thai ngoài ý

muốn. - Tàn tật suốt đời, các em gái có thể mất khả năng làm mẹ về sau và thậm chí

có thể dẫn đến cái chết. * Hậu quà về tâm lý, xã hội: - Suy sụp tinh thần, hoảng loạn, nhút nhát, học kém, sợ đàn ông; - Cảm giác bị mọi người khinh rẻ, bị cô lập, không có lối thoát, thậm chí có

xu hướng muốn tự tử hay tự hủy hoại mình, có thái độ muốn trả thù đời hoặc đi tìm sự quên lãng trong rượu, bia, nghiện hút, bỏ nhà ra đi và rơi vào cạm bẫy của các tệ nạn mại dâm, ma túy nhất là với trẻ em gái.

- Suy sụp về tình cảm, có thể trở nên thô bạo, tự hạ thấp mình, trong quan hệ với những người xung quanh, thường có cảm giác bị xua đuổi, sợ hãi và lúng túng..

h) Bạn có nên trách mắng con em mình nếu trẻ bị xâm hại tình dục không?

Thông thường, cha mẹ hay tức giận khi con em mình tỏ ra không ngoan. Nhưng việc trẻ bị xâm hại tình dục thường không phải là do lỗi của trẻ. Con bạn sẽ rất sợ hãi, sẽ đau đớn, sẽ bị chấn thương lớn về tinh thần, lúc đó, cha mẹ không nên trách mắng con em mình mà nên gần gũi, động viên, an ủi, tìm hiểu rõ sự việc và có cách giúp trẻ vượt qua những tổn thương về tinh thần và thể chất. Người lớn có đủ sức mạnh, lý trí hơn và phải hoàn toàn chịu trách nhiệm cho hành vi của mình, còn trẻ em thì có quyền được người lớn bảo vệ.

i) Trẻ có thể trở lại bình thường về mặt tinh thần được không? - Trẻ em bị xâm hại tình dục sẽ phải trải qua một thời kỳ khó khăn. Nếu việc

trẻ bị xâm hại càng kéo dài thì nó càng trở nên nghiêm trọng và trẻ càng bị tổn thương nhiều hơn.Nhưng khi trẻ đã được giúp đỡ, được mọi người cảm thông và bảo vệ khỏi bị tiếp tục xâm hại, thì trẻ có thể dần dần lấy lại được sự thăng bằng về mặt tinh thần.Nhiều khi cũng cần có sự giúp đỡ của các chuyên gia tâm lý để giúp trẻ vượt qua được mặc cả và trở lại tự tin.

- Khi vụ xâm hại tình dục bắt buộc phải đưa ra công khai nhiều người biết, cha mẹ cần chuẩn bị tốt tâm lý để hỗ trợ trẻ và như vậy trẻ sẽ có cơ hội để tự mình đối mặt với sự việc và nhận ra những điểm mạnh của mình. Trẻ sẽ hiểu rõ hơn về bản thân và những người xung quanh, đồng thời cũng cảm thấy mạnh mẽ và tự tin hơn khi được mọi người và luật pháp bảo vệ.Điều này cũng giúp trẻ hồi phục về mặt tinh thần.

10

- Tuy nhiên, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ và giúp đỡ của gia đình, những người xung quanh cũng như của những nhà chức trách, các chuyên gia tâm lý và những người làm công tác xã hội. Vì vậy, điều hết sức quan trọng là cha mẹ phải biết cách quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ con em mình, nhất là về mặt tinh thần để trẻ có thể vượt qua thời kỳ khó khăn đó.

k) Vì sao đứa trẻ bị xâm hại tình dục lại không thể kể chuyện cho chúng ta?

Các bậc cha mẹ có thể cảm thấy đau khổ, tức giận vì con em mình đã không kể lại với mình chuyện trẻ bị xâm hại.

Tuy nhiên, kẻ xâm hại tình dục lại luôn tìm cách bắt buộc trẻ phải giữ bí mật về chuyện đó. Chúng thuyết phục trẻ rằng chính bản thân trẻ sẽ bị kết tội về việc xâm hại đó rằng:

- Sẽ không ai tin dù trẻ có nói ra. - Chính trẻ sẽ bị rắc rối, chứ không phải những kẻ xâm hại, ví dụ như trẻ có

thể bị hàng xóm xa lánh, chê cười. - Những thành viên khác trong gia đình sẽ tức giận, trẻ có thể bị mắng mỏ,

trừng phạt. - Tại trẻ hư mà việc xâm hại mới xảy ra với trẻ… - Con em bạn có thể sợ bị trả thù nếu nói ra, hoặc các em cảm thấy quá tủi hổ

đến mức không thể nói về chuyện đó được. Trẻ em cũng không hình dung được sự đối xử của cha mẹ, gia đình mình sẽ như thế nào nên đã không dám kể chuyện đó ra.

- Có những trẻ mạnh bạo hơn đôi khi cũng kể lại với cha mẹ một cách xa xôi về chuyện đã xảy ra. Nhưng lúc đó, các bậc cha mẹ lại có thể cảm thấy quá lo lắng, sợ hãi cho tương lai của con em mình mà không muốn nghĩ đến hoặc không muốn tin chuyện đó; hoặc cũng lo lắng, nhưng lại không biết cách giải quyết như thế nào.

Thực ra, đứa trẻ phải hết sức dũng cảm mới có thể kể lại chuyện đó được và như vậy cha mẹ cũng phải dũng cảm để có thể lắng nghe, hiểu được con mình và hành động một cách bình tĩnh và đúng đắn.

l) Làm thế nào đề nhận biết một đứa trẻ là nạn nhân cùa xâm hại tình dục?

*Về thể chất Những chấn thương bất thường, không giải thích được và có thể xuất hiện

nhiều lần trên cơ thể (nếu trẻ bị xâm hại nhiều lần). Bầm tím, vết cắn, trầy da, vết rách và sụt cân.

*Về tâm lý: - Sợ hãi tột độ, có trạng thái lúng túng, bối rối, hoảng loạn, tâm trạng tủi hổ,

oán hờn. - Cáu giận, thô bạo, suy sụp, bị sốc, nhút nhát, có những cái nhìn lơ đãng. - Nói dối, muốn tự tử...

11

m) Bạn có thể làm gì để giúp một trẻ bị xâm hại tình dục? - Đây là việc hết sức quan trọng, nhưng không phải dễ làm. Muốn giúp một

trẻ bị xâm hại tình dục bạn cần biết cách lắng nghe con mình nói, tin con, động viên, an ủi, nói chuyện với con về những gì đã xảy ra mà không chất vấn con, đáp lại một cách hết sức âu yếm, bình tĩnh và làm cho con yên tâm rằng con không có lỗi gì cả và sẽ không bị buộc tội về bất cứ điều gì.

- Trẻ em thường sẽ vẫn tiếp tục cảm thấy bất an và cần được bảo vệ khỏi các vụ xâm hại trong tương lai. Vì vậy, bạn cần đảm bảo với con em mình rằng bạn sẽ làm tất cả để bảo vệ con.

- Bạn cũng nên hỏi con em bạn, dù nó còn rất nhỏ, xem trẻ cần hay trông đợi sự giúp đỡ gì ở bạn và cho phép trẻ có quyền tự quyết định một số điều cho bản thân mình.

- Bằng cách tỏ ra là chỗ dựa vững chắc của trẻ, bạn sẽ làm cho trẻ cảm thấy yên tâm hơn và dần dần lấy lại được lòng tin. Khi biết rằng mình vẫn được mọi người yêu quý, chăm sóc và được an toàn, trẻ sẽ cảm thấy đỡ lúng túng hơn và sẽ dần trở lại trạng thái bình thường.

- Một vấn đề khác là nhiều bậc cha mẹ cảm thấy quá xấu hổ, ngượng ngùng khi con em mình bị xâm hại tình dục. Các bậc cha mẹ có thể lo lắng nếu những người xung quang biết con mình bị xâm hại, tương lai của các cháu sẽ bị ảnh hưởng lớn bởi dư luận xã hội.

- Thực ra, nếu các bạn giữ kín điều đó thì có thể gây ảnh hưởng không tốt cho trẻ vì các bạn và con em bạn lúc đó sẽ không nhận được sự giúp đỡ nào của những người xung quanh và của cơ quan luật pháp. Do đó, việc khắc phục những hậu quả của vụ xâm hại sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Mặt khác, kẻ xâm hại lại không bị trừng trị và vì vậy, chúng có thể tự do tái diễn hành vi này với nhiều trẻ em khác. Chính vì thế, bạn nên báo ngay sự việc với các nhà chức trách hoặc những người có trách nhiệm như: Cơ quan ngành Lao động Thương binh và Xã hội (Người làm công tác Bảo vệ trẻ em); Công an, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên… để bạn và con em bạn được tư vấn, trợ giúp và kẻ có tội bị trừng phạt. Bạn cũng nên đưa ngay con em mình đến cơ sở y tế để được khám, điều trị và tư vấn sức khỏe...

Nói tóm lại, nếu con em mình bị xâm hại tình dục, bạn nên: - Lắng nghe và tỏ ra tin tưởng vào con em bạn, có thái độ bình tĩnh. - Làm cho trẻ tin rằng đó không phải là lỗi của trẻ. - Động viên bằng cách nói với trẻ rằng: “Bố (hoặc mẹ) rất hài lòng vì con đã

nói cho bố (hoặc mẹ) biết chuyện đó.” - Luôn luôn hỗ trợ, quan tâm nhiều hơn để giúp trẻ dần dần hồi phục sức khỏe

và tinh thần. - Nếu trẻ có biểu hiện tổn thương về cơ thể, bạn cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để

được khám và điều trị kịp thời. - Dạy cho trẻ biết cách đề phòng để tránh sự việc có thể lặp lại.

12

- Báo cáo sự việc với nhà chức trách để gia đình bạn được trợ giúp, bảo vệ và kẻ xâm hại bị trừng phạt.

n) Bạn có thể làm gì để phòng ngừa xâm hại tình dục cho con em bạn và các trẻ khác?

- Xâm hại tình dục thường xảy ra bất ngờ, có thể vào bất cứ lúc nào, ở mọi nơi và để lại những hậu quả khôn lường đối với sức khỏe, đời sống tinh thần và tương lai của trẻ. Trong khi đó, các bậc cha mẹ, người lớn lại không thể luôn luôn bên cạnh để bảo vệ trẻ.

- Vì vậy, các bậc cha mẹ cần nói cho con em mình biết những thông tin đúng đắn, chính xác về khi nào, ở đâu trẻ dễ bị xâm hại tình dục và ai là người có thể xâm hại trẻ.

Các bậc cha mẹ nên dạy cho trẻ một số nguyên tắc an toàn cá nhân sau đây để trẻ biết cách tránh xa và tự bảo vệ mình khỏi xâm hại tình dục:

· Trẻ nên tin vào linh tính của mình. Trẻ em có một sự nhạy cảm rất tự nhiên về những gì bất thường đang đến.Cha

mẹ và người lớn nên dạy trẻ biết cách tin vào linh tính của mình, dù chưa biết linh tính đó có chính xác hay không.Khi trẻ cảm thấy có điều gì không bình thường có thể xảy ra thì trẻ cũng phải đề phòng và tìm cách báo cho người nhà.

· Trẻ em biết khi nào có thể nói “Không” với người lớn. Thông thường, trẻ em vẫn được dạy phải ngoan ngoãn và nghe lởi người

lớn.Tuy vậy, các bậc cha mẹ cũng cần cho phép và dạy cho trẻ biết cách từ chối (hay nói “Không”) để trẻ tự bảo vệ mình khỏi các tình huống bất lợi.Ví dụ, nếu có người không thực sự quen thân muốn dụ dỗ trẻ đi vào những nơi vắng vẻ, tối tăm... trẻ cần kiên quyết chối từ và tránh xa.

· Trẻ là chủ của cơ thể mình. - Các bậc cha mẹ cần nói cho trẻ biết rằng cơ thể trẻ là của bản thân trẻ, không

ai có quyền động chạm, sờ mó một cách thô lỗ. Bạn cần nói cho trẻ biết ai là người có thể chạm vào cơ thể trẻ và chạm như thế nào và ngược lại, khi nào trẻ có thể chạm vào người khác và chạm như thế nào.

- Một điều hết sức quan trọng là cha mẹ cần giúp cho trẻ cảm thấy thoải mái, tự tin khi bước vào tuổi dậy thì. Bạn cần chuẩn bị sẵn sang cho con cái mình, gái cũng như trai, những hiểu biết cơ bản về sự thay đổi tâm sinh lý khi trẻ bắt đầu tới tuổi dậy thì. Việc trẻ cảm thấy bỡ ngỡ, lúng túng và tò mò trước những thay đổi ấy cũng là nguyên nhân của nhiều vụ xâm hại tình dục trẻ em.

- Các bậc cha, mẹ cũng nên hướng dẫn và quan tâm đến cách ăn, mặc của con em mình.

· Trẻ nên biết tránh xa những tình huống bất lợi. Trẻ cần được an toàn. Các bạn nên dạy cho trẻ biết cách quan sát và nhận biết

các hành vi xấu, biết cách tránh xa ai và những nơi nào làm cho trẻ cảm thấy không

13 an toàn hoặc bị đe dọa, sợ hãi, ví dụ những người hư hỏng, rượu chè hay những nơi tối tăm, vắng vẻ, tránh xem những sách báo, phim ảnh đồi trụy, mang tính kích dục.

· Trẻ cần biết những điều gì không nên giữ bí mật. Nhiều kẻ xâm hại tình dục thường dụ dỗ, đe dọa hay ép buộc để trẻ không nói

cho ai biết. Nhưng các bậc cha mẹ cần dạy cho trẻ biết không cần phải sợ những lời đe dọa đó, phải tạo cho trẻ niềm tin rằng bố mẹ, người thân có thể giúp đỡ trẻ, rằng trẻ không nên giấu kín về những gì làm cho trẻ sợ hãi hay đau đớn mà nên nói ra để được giúp đỡ, bảo vệ.

· Dạy trẻ biết cách tìm người giúp đỡ. Trẻ cần được chỉ dẫn cách tìm người giúp đỡ nếu trẻ bị sờ mó một cách thô

lỗ. Bạn cần nói với trẻ rằng mọi người sẽ luôn sẵn sáng bảo vệ, giúp đỡ trẻ khi trẻ cảm thấy có sự đe dọa.

Cần nhớ rằng: Các bạn không nên làm cho trẻ sợ hãi một cách không cần thiết, mà chỉ giúp trẻ tự bảo vệ mình. Các bạn cũng nên nhấn mạnh rằng chỉ có ít người xấu mới muốn làm hại trẻ, còn người lớn ai cũng yêu quý, chăm lo và bảo vệ cho trẻ.

Ngoài ra, bạn cũng nên quan tâm tới những điều sau để góp phẩn phòng ngừa xâm hại tình dục cho con em mình và cà những trẻ khác trong cộng đồng:

Là bậc cha mẹ, bạn nên: - TẠO RA VÀ DUY TRÌ cuộc sống gia đình có tình thương yêu, tôn trọng

và hiểu biết lẫn nhau (Cha, mẹ làm gương). - CẦN LUÔN BIẾT RÕ con bạn đang ở đâu, với ai và đang làm gì. Không

nên để cho trẻ chơi với nhau ở chỗ vắng vẻ, dễ dẫn tới các em bị xâm hại. Không nên để trẻ ở những trang trại, nương rẫy không có người lớn trông nom.

- HỎI con em bạn xem điều gì diễn ra khi con bạn ở một mình với người được gửi gấm hay với người trông trẻ hay người chăm sóc trẻ khác (như hàng xóm, người than quen…).

- QUAN TÂM tới con bạn. Dành thời gian lắng nghe con em bạn nói chuyện, tuyệt đối không được sao nhãng, bỏ mặc.

- KHUYẾN KHÍCH trẻ thường xuyên nói chuyện với bạn những hoạt động, thành tích và những khó khăn của trẻ.

- THẢO LUẬN về vấn đề xâm hại trẻ em với con em bạn một cách cởi mở và khuyến khích con em bạn kể lại bất kỳ hiện tượng nào mà trẻ cho là bị xâm hại hay có nguy cơ bị xâm hại.

- THAM GIA vào các hoạt động nâng cao kiến thức làm cha mẹ một cách tích cực và có hiệu quả.

- TÌM các chuyên gia giúp đỡ, hướng dẫn và tư vấn khi cần thiết. · Là thành viên trong cộng đồng, bạn nên:

14

- QUAN TÂM đến tình hình trẻ em ở xung quanh hàng xóm, khu phố, trong cộng đồng.

- BÁO CÁO bất kỳ trường hợp nào mà bạn nghi ngờ là xâm hại trẻ em cho nhà chức trách.

- PHỐI HỢP với gia đình và các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội, xác định và phát hiện kẻ xâm hại trẻ em.

- ĐỘNG VIÊN. Chia sẻ và hỗ trợ gia đình có trẻ bị xâm hại tình dục. - KHUYẾN KHÍCH và hỗ trợ việc điều trị chuyên khoa trong trường hợp

cần thiết cho trẻ bị xâm hại. - THAM GIA tích cực vào các hoạt động của cộng đồng, các tổ chức xã

hội và các cơ quan pháp luật phòng ngừa hạn chế tệ nạn xâm hại tình dục trẻ em. - VẬN ĐỘNG, tham gia xây dựng các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em và

gia dình trong khu phố, làng xóm, ủng hộ cho quyền trẻ em như đã được nêu rõ trong Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ en và Luật trẻ em.

o) Nếu con em mình hay một trẻ nào khác bị xâm hại tình dục, bạn nên báo ngay cho:

Bố mẹ, người thân trực tiếp của trẻ ; Cán bộ ngành LĐTBXH ;Công an xã, phường, thị trấn ;Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ; Thầy cô giáo của các em ; Hội phụ nữ, Đoàn thanh nien ... p) Điện thoại đường dây nóng miễn phí :Tổng đài Quốc gia 111

4. Một số quy định pháp luật có liên quan

4.1. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2016 được sửa đổi, bổ sung năm 2018.

- Điều 1:Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi.

-Điều 8 :

1- Trẻ em được Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự; được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình về những vấn đề có liên quan.

2- Nghiêm cấm việc ngược đãi, làm nhục, hành hạ, ruồng bỏ trẻ em; bắt trộm, bắt cóc, mua bán, đánh tráo trẻ em; kích động, lôi kéo, ép buộc trẻ em thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật hoặc làm những việc có hại đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em.

4.2. Nghị định56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em.

Điều 25. Tiếp nhận và phối hợp xử lý thông tin

15 1. Các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân nếu phát hiện hoặc có thông tin về hành vi xâm hại trẻ em hoặc trẻ em có nguy cơ bị xâm hại có trách nhiệm thông báo ngay cho Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em hoặc cơ quan lao động - thương binh và xã hội các cấp hoặc cơ quan công an các cấp hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra vụ việc (sau đây gọi là nơi tiếp nhận thông tin). Nơi tiếp nhận thông tin có trách nhiệm ghi chép đầy đủ thông tin về hành vi xâm hại trẻ em, trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại theo Mẫu số 01 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em có trách nhiệm cung cấp thông tin và phối hợp với cơ quan lao động - thương binh và xã hội các cấp, cơ quan công an các cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra vụ việc hoặc nơi trẻ em cư trú để thực hiện việc kiểm tra tính xác thực về hành vi xâm hại, tình trạng mất an toàn, mức độ nguy cơ gây tổn hại đối với trẻ em khi được yêu cầu. 3. Trường hợp tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm xâm hại trẻ em thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. Điều 26. Đánh giá ban đầu mức độ tổn hại của trẻ em bị xâm hại, trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt 1. Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em hoặc cơ quan lao động - thương binh và xã hội các cấp hoặc cơ quan công an các cấp có trách nhiệm phối hợp xử lý thông tin, thông báo, tố giác về trẻ em bị xâm hại, trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi; chuyển ngay thông tin đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra vụ việc để thực hiện việc đánh giá nguy cơ ban đầu về mức độ tổn hại của trẻ em. 2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra vụ việc chỉ đạo người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã tiến hành việc đánh giá nguy cơ ban đầu, mức độ tổn hại của trẻ em theo Mẫu số 02 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này để có cơ sở áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp can thiệp khẩn cấp. 3. Trường hợp trẻ em được xác định có nguy cơ hoặc đang bị tổn hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm thì trong vòng 12 giờ từ khi nhận thông tin, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp can thiệp khẩn cấp hoặc tạm thời cách ly trẻ em khỏi môi trường hoặc người gây tổn hại cho trẻ em quy định tại Điều 31 và Điều 32 của Nghị định này.

4.3. Nghị quyết 121/2020/QH14 của Quốc hội khóa XIVvề việc tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em. Quyết định 1472/QĐ-TTg ngày

16

26/9/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết 121/2020/NQ-QH14 của Quốc hội (Có tài liệu riêng).

4.4. Các quy định của Bộ Luật hình sự về tội phạm xâm hại tình dục trẻ em

Điều 141. Tội hiếp dâm 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. 4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó. Điều 142. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ; b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi. 2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Có tính chất loạn luân; b) Làm nạn nhân có thai; c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; đ) Phạm tội 02 lần trở lên; e) Đối với 02 người trở lên; g) Tái phạm nguy hiểm. 3.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Có tổ chức;

17 b) Nhiều người hiếp một người; c) Đối với người dưới 10 tuổi; d) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; đ) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Điều 143. Tội cưỡng dâm 1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. 4. Cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó. Điều 144. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi 1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi 1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi 1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Điều 147. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm 1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

4.5. Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều

18 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự, hướng dẫn giải quyết các vướng mắc trong thực tiễn xét xử và việc tổ chức xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.

Điều 2. Giải thích từ ngữ

1. Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ: hoạt động xâm hại tình dục được thực hiện do đồng thuận với người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví dụ: cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ...).

2. Bộ phận sinh dục bao gồm bộ phận sinh dục nam và bộ phận sinh dục nữ. Bộ phận sinh dục nam là dương vật; bộ phận sinh dục nữ bao gồm âm hộ, âm đạo.

3. Bộ phận nhạy cảm bao gồm bìu, mu, hậu môn, háng, đùi, mông, vú.

4. Bộ phận khác trên cơ thể là bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể không phải là bộ phận sinh dục và bộ phận nhạy cảm (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi, mũi, gáy, cổ, bụng...).

5. Dụng cụ tình dục là những dụng cụ được sản xuất chuyên dùng cho hoạt động tình dục (ví dụ: dương vật giả, âm hộ giả, âm đạo giả...) hoặc những đồ vật khác nhưng được sử dụng cho hoạt động tình dục.

Điều 3. Về một số tình tiết định tội

1. Giao cấu quy định tạikhoản 1 Điều 141, khoản 1 Điều 142, khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sựlà hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.

Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập.

2. Hành vi quan hệ tình dục khác quy định tại khoản 1 Điều 141, khoản 1 Điều 142, khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:

a) Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;

b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.

19 3. Dâm ô quy định tạikhoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sựlà hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục, gồm một trong các hành vi sau đây:

a) Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi;

b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi...) tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;

c) Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;

d) Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác;

đ) Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy... của người dưới 16 tuổi).

4. Trình diễn khiêu dâm quy định tạikhoản 1 Điều 147 của Bộ luật Hình sựlà hành vi dùng cử chỉ, hành động, lời nói, chữ viết, ký hiệu, hình ảnh, âm thanh nhằm kích thích tình dục người dưới 16 tuổi; phô bày bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, khỏa thân, thoát y hoặc thực hiện các động tác mô phỏng hoạt động tình dục (bao gồm giao cấu, thủ dâm và các hành vi tình dục khác) dưới mọi hình thức.

5. Trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người dưới 16 tuổi trực tiếp chứng kiến người khác trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức.

6. Các hình thức biểu hiện trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Hình sự:

a) Trực tiếp trình diễn khiêu dâm trước mặt người dưới 16 tuổi hoặc dụ dỗ người dưới 16 tuổi trực tiếp trình diễn khiêu dâm;

b) Chiếu trực tiếp cảnh trình diễn khiêu dâm có sự tham gia của người dưới 16 tuổi;

c) Dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc người dưới 16 tuổi tự chụp, quay lại cảnh trình diễn khiêu dâm của mình sau đó phát tán;

d) Dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc người dưới 16 tuổi khỏa thân và truyền tải trực tiếp âm thanh, hình ảnh qua internet (livestream);

20 đ) Trình chiếu các ấn phẩm đồi trụy có sử dụng người dưới 16 tuổi hoặc hình ảnh mô phỏng người dưới 16 tuổi (hoạt hình, nhân vật được tạo ra bằng công nghệ số);

e) Mô tả bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của con người, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 2 Điều 5 của Nghị quyết này;

g) Các hình thức biểu hiện khác của trình diễn khiêu dâm hoặc trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm.

7. Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân quy định tại khoản 1 Điều 141 và khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là việc người phạm tội lợi dụng tình trạng người bị hại lâm vào một trong những hoàn cảnh sau đây để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác:

a) Ngưòi bị hại không thể chống cự được (ví dụ: người bị hại bị tai nạn, bị ngất, bị trói, bị khuyết tật... dẫn đến không thể chống cự được);

b) Người bị hại bị hạn chế hoặc bị mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi (ví dụ: người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc gây mê, ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích, các chất kích thích khác, bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác... dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi).

8. Thủ đoạn khác quy định tại khoản 1 Điều 141 và khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự bao gồm các thủ đoạn như đầu độc nạn nhân; cho nạn nhân uống thuốc ngủ, thuốc gây mê, uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.

9. Trái với ý muốn của nạn nhân quy định tại khoản 1 Điều 141 và điểm a khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là người bị hại không đồng ý, phó mặc hoặc không có khả năng biểu lộ ý chí của mình đối với hành vi quan hệ tình dục cố ý của người phạm tội.

10. Người lệ thuộc quy định tại khoản 1 Điều 143 và đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình quy định tại khoản 1 Điều 144 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người bị hại bị lệ thuộc vào người phạm tội về vật chất (ví dụ: người bị hại được người phạm tội nuôi dưỡng, chu cấp chi phí sinh hoạt hàng ngày...) hoặc lệ thuộc về tinh thần, công việc, giáo dục, tín ngưỡng (ví dụ: người bị hại là người lao động làm thuê cho người phạm tội; người bị hại là học sinh trong lớp do người phạm tội là giáo viên chủ nhiệm hoặc giáo viên bộ môn...).

11. Người đang ở trong tình trạng quẫn bách quy định tại khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người bị hại đang lâm vào hoàn cảnh

21 khó khăn, bức bách nhưng không tự mình khắc phục được mà cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của người khác (ví dụ: không có tiền chữa bệnh hiểm nghèo; không có tiền để chuộc con mình đang bị bắt cóc...).

Điều 4. Về một số tình tiết định khung

1. Có tính chất loạn luân quy định tại điểm e khoản 2 Điều 141, điểm a khoản 2 Điều 142, điểm d khoản 2 Điều 143 và điểm a khoản 2 Điều 144 của Bộ luật Hình sự là một trong các trường hợp sau đây:

a) Phạm tội đối với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha;

b) Phạm tội đối với cô ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột, cháu ruột;

c) Phạm tội đối với con nuôi, bố nuôi, mẹ nuôi;

d) Phạm tội đối với con riêng của vợ, con riêng của chồng, bố dượng, mẹ kế;

đ) Phạm tội đối với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể.

2. Phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm c khoản 2 Điều 141, điểm đ khoản 2 Điều 142, điểm b khoản 2 Điều 143, điểm d khoản 2 Điều 144, điểm a khoản 2 Điều 145, điểm b khoản 2 Điều 146 và điểm b khoản 2 Điều 147 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội từ 02 lần trở lên nhưng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

3. Nhiều người hiếp một người quy định tại điểm c khoản 2 Điều 141 và điểm b khoản 3 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là trường hợp 02 người trở lên hiếp dâm 01 người. Cũng được coi là “nhiều người hiếp một người”, nếu có từ 02 người trở lên cùng bàn bạc, thống nhất sẽ thay nhau hiếp dâm 01 người, nhưng vì lý do ngoài ý muốn mới có 01 người thực hiện được hành vi hiếp dâm.

Không coi là “nhiều người hiếp một người”, nếu có từ 02 người trở lên câu kết với nhau tổ chức, giúp sức cho 01 người hiếp dâm (trường hợp này là đồng phạm).

4. Nhiều người cưỡng dâm một người quy định tại điểm a khoản 2 Điều 143 và điểm a khoản 3 Điều 144 của Bộ luật Hình sự là trường hợp 02 người trở lên cưỡng dâm 01 người. Cũng được coi là “nhiều người cưỡng dâm một người” nếu có từ 02 người trở lên cùng bàn bạc, thống nhất sẽ thay nhau cưỡng dâm 01 người, nhưng vì lý do ngoài ý muốn mới có 01 người thực hiện được hành vi cưỡng dâm.

Không coi là “nhiều người cưỡng dâm một người”, nếu có từ 02 người trở lên câu kết với nhau tổ chức, giúp sức cho 01 người cưỡng dâm (trường hợp này là đồng phạm).

Điều 5. Các trường hợp loại trừ xử lý hình sự

22 1. Không xử lý hình sự theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật Hình sự nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người trực tiếp chăm sóc, giáo dục người dưới 10 tuổi, người bệnh, người tàn tật, có hành vi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của họ nhưng không có tính chất tình dục (ví dụ: cha, mẹ tắm rửa, vệ sinh cho con dưới 10 tuổi; giáo viên mầm non tắm rửa, vệ sinh cho trẻ mầm non...);

b) Người làm công việc khám, chữa bệnh, chăm sóc y tế; người cấp cứu, sơ cứu người bị nạn có hành vi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi nhưng không có tính chất tình dục (ví dụ: bác sĩ khám, chữa bệnh cho bệnh nhân; sơ cứu, cấp cứu người bị tai nạn, người bị đuối nước...).

2. Không xử lý hình sự theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Hình sự đối với trường hợp người làm công tác giáo dục, khám, chữa bệnh, chăm sóc y tế mô tả bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của con người vì mục đích giáo dục, khám, chữa bệnh, chăm sóc y tế.

Điều 6. Nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội xâm hại tình dục

1. Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.

2. Áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm luân thường, đạo đức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng nghề nghiệp, công việc; xâm hại người dưới 13 tuổi.

3. Áp dụng các hình phạt bổ sung cao nhất theo quy định của Bộ luật Hình sự và các đạo luật khác có liên quan. Trong trường hợp cần thiết có thể cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề liên quan đến người dưới 16 tuổi.

Điều 7. Tổ chức xét xử vụ án xâm hại tình dục có bị hại là người dưới 18 tuổi

1. Thời hạn xét xử vụ án xâm hại tình dục có bị hại là người dưới 18 tuổi được thực hiện như sau:

a) Áp dụng thủ tục rút gọn đối với các trường hợp đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự;

b) Đưa các vụ án khác ra xét xử trong thời hạn không quá 1/2thời hạn pháp luật cho phép đối với các trường hợp tương ứng.

2. Khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, Tòa án phải thực hiện:

a) Xét xử kín, tuyên án công khai theo đúng quy định tại Điều 327 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Khi tuyên án, Hội đồng xét xử chỉ đọc phần quyết định trong bản án;

b) Phân công Thẩm phán có kiến thức hoặc kinh nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi;

23 c) Khi tham gia xét xử, Thẩm phán mặc trang phục làm việc hành chính của Tòa án nhân dân, không mặc áo choàng;

d) Xử án tại Phòng xét xử thân thiện theo đúng quy định tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 và Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21 tháng 9 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

đ) Có sự tham gia của người đại diện, người giám hộ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi.

3. Khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, căn cứ vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, Tòa án cần thực hiện:

a) Hạn chế triệu tập bị hại là người dưới 18 tuổi đến phiên tòa nếu vẫn giải quyết được vụ án bằng việc áp dụng các biện pháp thay thế khác (ví dụ: sử dụng lời khai của họ ở giai đoạn điều tra, truy tố; mời họ đến Tòa án hoặc địa điểm hợp pháp khác để lấy lời khai trước bằng văn bản, bằng ghi âm, ghi hình có âm thanh...).

b) Trường hợp phải triệu tập bị hại là người dưới 18 tuổi đến phiên tòa, Tòa án cần tạo điều kiện để họ làm quen, tiếp xúc với môi trường Tòa án, với quy trình và thủ tục xét xử; bố trí cho họ ngồi ở phòng cách ly và sử dụng các thiết bị điện tử (ví dụ: micro, loa, ti vi, camera...) để không làm ảnh hưởng đến tâm lý của họ khi họ khai báo, tham gia tố tụng tại phiên tòa; trường hợp không bố trí được phòng cách ly thì để họ ngồi ở phòng xử án nhưng phải có màn che ngăn cách với khu vực của bị cáo và khoảng cách giữa Hội đồng xét xử với người bị hại là người dưới 18 tuổi không quá 03 mét.

c) Câu hỏi đối với bị hại là người dưới 18 tuổi phải phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển, trình độ văn hóa, hiểu biết của họ. Câu hỏi cần ngắn gọn, rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu; không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc; chỉ đặt câu hỏi làm rõ tình tiết vụ án; không đặt câu hỏi chỉ để tranh luận. Câu hỏi đối với bị hại dưới 10 tuổi không quá 10 từ và thời gian hỏi không liên tục quá 01 giờ.

d) Sử dụng sơ đồ hoặc mô hình cơ thể có đánh số thứ tự các bộ phận để người bị hại là người dưới 18 tuổi xác định các bộ phận bị xâm hại.

đ) Khi bị cáo đề nghị được hỏi bị hại là người dưới 18 tuổi thì phải chuyển câu hỏi cho người bào chữa hoặc Hội đồng xét xử hỏi.

4. Khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, Tòa án không được:

a) Yêu cầu bị hại là người dưới 18 tuổi tường thuật lại chi tiết quá trình phạm tội;

b) Sử dụng câu hỏi có tính chất công kích, đe dọa, gây xấu hổ, xúc phạm bị hại;

c) Đối chất giữa bị hại với người phạm tội tại phiên tòa;

24 d) Xác định bộ phận bị xâm hại bằng cách để bị hại là người dưới 18 tuổi chỉ trực tiếp vào bộ phận cơ thể của mình hoặc của người khác;

đ) Để bị cáo hỏi trực tiếp bị hại là người dưới 18 tuổi;

e) Buộc bị hại là người dưới 18 tuổi phải đứng khi tham gia tố tụng tại phiên tòa;

g) Công khai bản án, quyết định của Tòa án liên quan đến vụ án trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án.

5. Tòa án phải xem xét và đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ phù hợp theo quy định tại Chương XXXIV của Bộ luật Tố tụng hình sự khi bị hại, người thân thích của bị hại yêu cầu hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiến nghị bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của bị hại, người thân thích của họ.

25

B. TÌM HIỂU CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG TẢO HÔN

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nhận thức tác hại của tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã có nhiêu chủ trương chính sách phòng chống và ngăn chặn, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược nâng cao sức khỏe, trí tuệ, tầm vóc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy, tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trên phạm vi toàn quốc nói chung, trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói riêng đã được giảm thiểu, nhưng ở vùng nông thôn miền núi, nơi đồng bào các dân tộc thiếu số sinh sống tình trạng này vẫn còn khá phố biến, có nơi gia tăng trở lại, đây là nguyên nhân tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm suy giảm chất lượng dân số trong vùng dân tộc thiếu số nói riêng và cộng đồng người Việt Nam nói chung.

Để tiếp tục tăng cường công tác chỉ đạo và đề ra các giải pháp ngăn chặn tình trạng này, ngày 14/4/2015 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 498/ QĐ- TTg phê duyệt Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2025”. Đây là chính sách thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc nâng cao chất lượng dân số, là một nhiệm vụ cấp thiết yêu cầu các cấp các ngành từ TW đến các địa phương, tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống, giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số. Dưới đây là những nội dung cơ bản tuyên truyền về hậu quả của tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống và công tác phòng chống ngăn chặn tình trạng này trong vùng dân tộc thiếu số.

PHẦN I

THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ TẢO HÔN VÀ HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG

TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG VÀ HẬU QUẢ

I. TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG - HẬU QUẢ

1. Tảo hôn: Là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả 2 bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật, cụ thể: nữ chưa đủ từ 18 tuối trở lên và nam chưa đủ từ 20 tuổi trở lên mà đã lấy vợ hoặc lấy chồng là tảo hôn, trái với quy định của pháp luật.

* Hậu quả của tảo hôn

- Tảo hôn ảnh hưởng trực tiếp đến thể chất, tâm, sinh lý nhất là các em gái; khi chưa đủ tuổi trưởng thành, cơ thể chưa phát triển hoàn thiện, việc quan hệ tình dục sớm, mang thai, sinh đẻ, nuôi con sớm khi còn thiếu kiến thức sẽ không đảm

26 bảo được vai trò làm mẹ, khủng hoảng về tâm lý, ảnh hưởng tới quá trình phát triển thể chất tự nhiên của con người, dẫn tới thoái hóa và nhiều di chứng bệnh tật, làm suy kiệt sức khỏe mẹ và con, trẻ sinh ra nhẹ cân, còi cọc, suy dinh dưỡng, dễ bị tử vong ở lứa tuổi từ 1- 5 tuổi.

- Đối với nam giới do chưa phát triển đầy đủ về thế chất, tâm, sinh lý khi phải làm cha sớm, suy thoái giống nòi, giảm chất lượng dân số.

- Nhiều trường họp do bị ép gả lấy chồng, lấy vợ sớm, đôi nam nữ không được tìm hiểu, sinh buồn chán, bế tắc dẫn đến tiêu cực, ly hôn, ly thân, bỏ đi khỏi địa phương, sa vào tai tệ nạn xã hội, có trường hợp tìm cái chết bằng tự tử...

- Do lấy vợ, lấy chồng sớm không có điều kiện học tập, nâng cao trình độ kiến thức và kinh nghiệm sống, không tiếp cận được với các tiến bộ KHKT, mất cơ hội tìm kiếm việc làm.

- Tảo hôn cũng là nguyên nhân của đói nghèo, trẻ em thất học do cặp vợ chồng trẻ còn thiếu kinh nghiệm sống, thiếu vốn, cuộc sống gặp nhiều khó khăn cả vật chất và tinh thần, gánh nặng cho cả gia đình và xã hội.

2. Hôn nhân cận huyết thống: Là hình thức hôn nhân giữa người nam và người nữ trong cùng thân tộc, họ hàng có mối quan hệ huyết thống với nhau theo dòng họ mẹ hoặc dòng họ cha (Hôn nhân có cùng dòng máu trực hệ)

Theo quy định của luật hôn nhân gia đình thì những người có quan hệ thân tộc trong phạm vi 3 đời không được lấy nhau: Đời thứ nhất: Cha, mẹ; đời thứ hai: Anh em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; đời thứ ba: Anh chị em con chú, con bác, con cô con cậu con dì.

* Hậu quả của hôn nhân cận huyết thống

- Con sinh ra hay mắc các bệnh di truyền và dị tật như:

+ Sức đề kháng kém, hay mắc các bệnh truyền nhiễm, bệnh tim mạch.

+ Bệnh mù màu (không phân biệt được màu sắc).

+ Bệnh down (đao), đần độn do thiểu năng trí tuệ.

+ Còi cọc, kém phát triển về chiều cao và cân nặng, giảm tuổi thọ.

+ Hay mắc bệnh bạch tạng, bệnh da vảy nến, đặc biệt là bệnh tan máu bẩm sinh, nguy cơ tử vong rất cao.

Những căn bệnh này làm suy kiệt sức khỏe, dẫn tới suy thoái nòi giống của cả một dòng họ, một dân tộc.

- Là gánh nặng của gia đình và xã hội:

27

+ Nhìn nhận ở góc độ xã hội thì hôn nhân cận huyết là trái với quy định của pháp luật, vì vậy những cặp hôn nhân không được pháp luật thừa nhận luôn có tâm lý mặc cảm, thiếu tự tin trong hòa nhập với cộng đồng.

+ Về góc độ gia đình khi có đứa trẻ sinh ra bị dị tật hoặc phát triển không bình thường thì cha, mẹ, họ hàng thân tộc đều chung tâm trạng ái ngại, buồn chán, tốn kém trong nuôi dưỡng, chăm sóc và chữa trị mà không mang lại tương lai gì tốt đẹp, không duy trì được giống nòi, bản thân trẻ sinh ra không được bình thường trở thành gánh nặng cho gia đình.

II. NGUYÊN NHÂN TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG 1. Nguyên nhân khách quan:

- Thứ nhất: Do ảnh hưởng của những quan niệm, phong tục tập quán lạc hậu: Đã ăn sâu trong nhận thức của người dân từ nhiều đời nay, chi phối mạnh mẽ trong đời sống, sinh hoạt của phần lớn đông bào các dân tộc thiếu số; cụ thể:

* Về tảo hôn: Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, việc kết hôn còn nặng về phong tục, tập quán; việc lấy vợ, lấy chồng chỉ cần sự đồng ý của những người đứng đầu trong dòng họ, cha mẹ hai bên nam, nữ (thủ tục làm lý) và sự chứng kiến của họ hàng, làng xóm công nhận, các gia đình thường dựng vợ gả chồng cho con từ rất sớm (15 - 17 tuổi, thậm chí 13- 14 tuổi). Vì chưa đủ tuổi theo luật định nên việc kết hôn không được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó sinh ra lẩn tránh hoặc lách luật dưới nhiều hình thức khác nhau như cưới chui, làm lý cúng tổ tiên bỏ qua cưới, chờ đủ tuổi đến chính quyên đăng ký và khai sinh cho con, hoặc khai sinh cho con không khai bố...

+ Quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy; hứa hôn, sớm có chỗ cho con thành vợ, thành chồng.

+ Tục lệ bắt vợ, tục “nối dây”, dẫn đến cưỡng ép hôn nhân sớm.

+ Lấy vợ lấy chồng sớm để có thêm lao động, để có con đàn cháu đống, bậc cha mẹ sớm được lên chức ông, bà... Nữ sớm có chỗ dựa (không sợ ế), nam lấy vợ sẽ nhanh chóng trưởng thành trụ cột, sớm ra ở riêng vì còn đông em trong nhà...

+ Học sinh sau khi học, cơ hội tìm kiếm việc làm khó khăn, tư tưởng các bậc phụ huynh và học sinh bỏ học về đi lao động và lấy vợ, lấy chồng để ổn định cuộc sống...

* Về hôn nhân cận huyết thống:

+ Quan niệm cứ khác họ là lấy nhau được, vì vậy con anh, con cô, con chị, con dì ở ngay đời thứ 2, thứ 3 lấy nhau thành vợ, chồng còn khá phổ biến.

Tục lệ thách cưới cao dẫn đến quan niệm kết hôn trong họ tộc sẽ thách cưới ít hơn và để lưu giữ tài sản trong gia đình dòng họ, không mang của cải đi, hoặc chia của cải sang họ khác.

28

+ Quan niệm trong họ hàng lấy nhau, được gia đình, bố mẹ, con cái hai bên đùm bọc, thương yêu, dễ bảo ban nhau hơn...

+ Nhiều cộng đồng dân tộc sống khép kín trong địa bàn một xã, hoặc 1 thôn ở vùng cao, ít giao tiếp ra bên ngoài, thanh niên lớn lên lấy vợ, lấy chồng quanh quẩn ngay trong dòng tộc...

+ Do đông con nhiều cháu, biết có họ hàng gần, nhưng vì lý do các cặp con cháu yêu nhau, trót lỡ rồi nên bố mẹ, họ hàng đành phải chấp nhận...

- Thứ hai: Do tác động, ảnh hưởng của sự phát triền xã hội và lối sống thời hiện đại.

- Thực tế cuộc sống hiện nay, khi đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần ngày càng được nâng cao, cùng với sự bùng nổ về công nghệ thông tin, mạng xã hội, điện thoại di động, băng, đĩa hình và các văn hóa phẩm độc hại đã tác động đến quan niệm sống tự do của lớp trẻ, không còn giữ gìn thuần phong mỹ tục theo quan niệm đạo đức xưa. Vì vậy trai, gái dễ gần gũi như vợ chồng và làm gia tăng tỉ lệ mang thai sớm. Đây cũng là nguyên nhân khách quan làm gia tăng tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở vừng dân tộc thiếu số.

b. Nguyên nhân chủ quan

- Thứ nhất: Do trình độ dân trí và ỷ thức pháp luật của người dân còn hạn chế:

Thực tế cho thấy phần lớn trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống đều rơi vào đối tượng ở vùng cao, thanh niên, phụ nữ ít học, hiểu biết pháp luật hạn chế và việc tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng còn thiếu thốn khó khăn, một số trường hợp cả các bậc cha mẹ và con cái biết vi phạm nhưng vẫn cố ý lách luật.

- Thứ hai: Công tác tuyên truyền còn hạn chế và hiệu quả chưa cao.

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình đã được chính quyền các cấp, các tổ chức xã hội, các cơ quan pháp luật quan tâm, nhưng vẫn còn bộc lộ những yếu kém, hạn chế, công tác tổ chức tuyên truyền ở cơ sở chưa được thường xuyên, hình thức, phương pháp tuyên truyền chưa sâu rộng, thiếu sắc bén, thiếu kỹ năng, nặng về hình thức răn đe, thiếu cảm hóa, thuyết phục, thiếu đội ngũ làm công tác tuyên truyền là người địa phương nên việc đưa thông tin pháp luật đến với vùng đồng bào dân trí thấp, không biết chữ, chưa thông thạo tiếng phố thông không mang lại hiệu quả.

- Thứ ba: Do nhữnng bất cập, hạn chế trong các quy định của Luật hôn nhân và gia đình và các quy định pháp luật liên quan

Chế tài xử phạt chưa đủ răn đe, hình thức chủ yếu dừng lại ở mức xử lý là nộp phạt hành chính (Theo Nghị định 82/2020/NĐ-CP, mức phạt áp dụng đối với các

29 hành vi vi phạm quy định tại điều 58... ở mức từ 1.000.000đ – 3.000.000 đ). Gia đình và các cặp tảo hôn sẵn sàng thực hiện nộp phạt và coi như đã xong, sau đó vê sống chung thành vợ chồng...

Về các trường hợp cấm kết hôn, hủy kết hôn trái pháp luật giữa những người có họ trong phạm vi ba đời không có tính khả thi khi áp dụng thực tế ở vùng dân tộc thiểu số, khi họ hàng, hai bên gia đình đồng ý cho các cặp có họ lấy nhau thì chính quyền, các tổ chức đoàn thể chưa có biện pháp can thiệp rõ ràng.

- Thứ tư: Sự can thiệp từ phía chính quyên địa phương đối với các trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống chưa mạnh mẽ, thiếu kiên quyết.

Việc cải tạo, loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu nói chung, loại bỏ tục tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống nói riêng ra khỏi đời sống xã hội vùng dân tộc thiếu số chưa đạt được hiệu quả cao có nguyên nhân rất quan trọng là do sự can thiệp thiếu mạnh mẽ, thiếu kiên quyết từ phía chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở, thực tế cho thấy cán bộ thực thi pháp luật ở cơ sở đều ngại va chạm với loại hình vi phạm này, chủ yếu tập trung vào việc xử phạt hành chính và không cho đăng ký kết hôn, khi họ cố tình đến ở với nhau thì chính quyền lại thụ động, lúng túng, không giải quyết triệt để. (Không muốn mất lòng, mất uy tín vì bản thân cũng là một công dân sống cùng trong cộng đồng đó...)

Về ý thức, không chỉ những người dân mà cả cán bộ, Đảng viên là lãnh đạo xã, phường ở một số nơi cũng đồng tình tiếp tay, vẫn đến dự đám cưới tảo hôn, có trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống diễn ra ngay trong gia đình, dòng họ cán bộ, Đảng viên.

Tâm lý sợ mất thành tích thi đua dẫn đến che giấu cho việc tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống còn khá phố biến ở cơ sở.

Việc sửa đổi quy ước, hương ước thôn, bản, dòng họ chưa kịp thời, đến nay vẫn còn nhiều nơi quy định phạt tảo hôn bằng vật chất (lợn, gà, rượu..) sau đó tố chức ăn uống như kiểu liên hoan để công nhận cho họ, vô hình gây phản tác dụng giáo dục.

Một số huyện chưa thực sự quan tâm chỉ đạo công tác phòng chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trên địa bàn.

- Thứ năm: Vai trò của Mặt trận Tô quốc, các đoàn thể quần chúng ở cơ sở hoạt động còn hạn chế, khó khăn:

Qua khảo sát thực tế cơ sở cho thấy, Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ về cơ bản đều nắm được các trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết trên địa bàn, nhưng thiếu chủ động trong vai trò phối hợp giáo dục, thuyết phục, vận động, chưa tạo được phong trào mạnh mẽ trong quần chúng về phòng chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống.

PHẦN II

30

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG TRONG GIAI ĐOẠN 2017 - 2020 - 2025

Dự báo tình hình: Tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh hiện nay vẫn diễn biến phức tạp, công tác quản lý, ngăn chặn, phòng tránh (Đặc biệt là nạn tảo hôn) là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài, những rào cản do lịch sử để lại, phong tục tập quán lạc hậu còn nặng nề trong đông bào và những hạn chế bất cập trong công tác tuyên truyền, vận động và công tác quản lý chưa thực sự mang lại hiệu quả đang là thách thức cho các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và các tổ chức chính trị, xã hội. Trong giai đoạn tới cần tập trung vào thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp sau đây.

I. MỤC TIÊU

Phấn đấu đến năm 2020 giảm 80- 90% số cặp tảo hôn, đến năm 2025 căn bản giảm thiểu tình trạng tảo hôn và chấm dứt hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, góp phần nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực vùng dân tộc thiêu số, rút ngắn khoảng cách so với mặt bằng chung.

II. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM

Tiếp tục khảo sát, đánh giá đúng thực trạng tình hình tảo hôn, hôn nhân cận huyêt thống, tập trung những địa bàn trọng điểm có nguy cơ tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống cao, từ thực tế đó để căn cứ xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể của từng địa phương, xác định rõ nhiệm vụ, giải pháp và kinh phí thực hiện.

Tăng cường đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, xác định tuyên truyền gắn với vận động thuyết phục là nhiệm vụ trọng tâm lâu dài có ý nghĩa quyết định để nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi trong hôn nhân, không tảo hôn và hôn nhân cận huyêt thống trong đồng bào dân tộc thiếu số,

Xây dựng các mô hình điểm, xã, thôn, trường học, hướng tới mục tiêu… không tảo hôn, không hôn nhân cận huyết thống để học tập, nhân rộng điển hình, thành lập và duy trì các câu lạc bộ tiền hôn nhân gắn với câu lạc bộ tuyên truyền pháp luật, thu hút người dân tham gia thực hiện.

31

TÀI LIỆU HỎI – ĐÁP VỀ TẢO HÔN

Câu 1. Tảo hôn là gì?

TRẢ LỜI:

Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật (điếm a, khoản 1 Điểu 8 Luật HN-GĐ năm 2014: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên; Nữ từ đủ 18 tuổi trở lên).

Câu 2. Tảo hôn mang lại những hậu quả gì?

TRẢ LỜI:

Ảnh hưởng xấu đến sức khỏe bà mẹ trẻ em

Nảy sinh nhiều mâu thuẫn gia đình do hôn nhân không có tình yêu

Làm suy giảm chất lượng dân số, suy thoái giống nòi

Hạn chế sức lao động

Ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội

Vi phạm pháp luật về hôn nhân, ảnh hưởng xấu đến cộng đồng

Câu 3. Pháp luật xử lỷ như thế nào khỉ có trường hợp tảo hôn xảy ra?

TRẢ LỜI:

Người nào có hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn, tùy theo mức độ vi phạm đối với từng trường hợp cụ thể có thể xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trước hết, khi có hành vi vi phạm, người tảo hôn và người tổ chức tảo hôn sẽ bị xử phạt theo quy ước thôn, bản nơi mình sinh sống.

Bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 58, Nghị định số 82/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn bị xử phạt hành chính cụ thể như sau:

1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.

2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án.

32

Đồng thời, người nào đã bị xử phạt hành chính về hành vi tố chức tảo hôn mà còn vi phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức tảo hôn theo quy định tại Điều 183, Bộ Luật Hình sự năm 2015, cụ thể:

Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đống đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.

Câu 4. Thế nào là những người có cùng dòng máu về trực hệ?

TRẢ LỜI:

Khoản 17 Điều 3 Luật hôn nhan và gia đình năm 2014 quy định: Những người cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau.

*Câu 5. Thế nào là những người cỏ họ trong phạm vi ba đời?

TRẢ LỜI

Theo quy định tại khoản 18 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha, mẹ là đời thứ nhất, anh, chị cùng cha, mẹ cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba.

Câu hỏi 6: Thế nào là hôn nhân cận huyết thống?

TRẢ LỜI

Kết hôn cận huyết thống là hôn nhân giữa nam và nữ trong cùng họ hàng thân thuộc chưa quá ba thế hệ. Nói cách khác, hôn nhân cận huyết thống là hôn nhân giữa nam và nữ có cùng dòng máu về trực hệ hoặc những người có họ hàng thân thuộc trong phạm vi ba đời.

Câu 7: Hôn nhân cận huyết thống gây ra hậu quả gì cho gia đình và xã hội?

TRẢ LỜI:

Hôn nhân cận huyết thống gây ra hậu quả xấu đối với gia đình và xã hội, đó là:

Con sinh ra hay mắc các bệnh di truyền và dị tật như: Sức đề kháng kém, hay mắc các bệnh truyền nhiễm, bệnh tim mạch; Bệnh mù màu (không phân biệt được màu sắc); Bệnh down (đao), đần độn do thiểu năng trí tuệ; Còi cọc, kém phát triển về chiều cao và cân nặng, giảm tuổi thọ; Hay mắc bệnh bạch tạng, bệnh da vảy nến, đặc biệt là bệnh tan máu bẩm sinh, nguy cơ tử vong rất cao.

Là gánh nặng của gia đình và xã hội:

Làm suy giảm chất lượng dân số, suy thoái giống nòi

Ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội

33 Vi phạm pháp luật về hôn nhân, ảnh hưởng xấu đến cộng đồng

*Câu 8. Thế nào là cản trở kết hôn, ly hôn?

TRẢ LỜI:

Theo khoản 10 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Cản trở kết hôn, ly hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này hoặc buộc người khác phải duy trì quan hệ hôn nhân trái với ý muốn của họ.

Câu 9: Xử phạt hành chính đối với hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người có họ trong phạm vi ba đời hoặc có dòng máu trực hệ như thế nào?

TRẢ LỜI

Khoản 35 Điều 1, Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bố trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, họp tác xã quy định:

Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.0000 đồng đối với hành vi kết hôn hoặc chung Ksống như vợ chồng giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;

Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người có cùng dòng máu về trực hệ.

Câu 10: Xử lý việc chung sống như vợ chồng dưới tuổi luật định như thế nào?

TRẢ LỜI

Theo khoản 7, Điều 3 Luật HNGĐ năm quy định: Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng

Chung sống với nhau như vợ chồng dưới tuổi luật định (Hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng; một hoặc cả hai bên nam nữ chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định) là hành vi tảo hôn và vi phạm pháp luật. Hai bên nam nữ không được công nhận là quan hệ vợ chồng.

Hành vi tảo hôn là hành vi bị cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình. Tùy vào tính chất và mức độ mà hành vi tảo hôn bị xử phạt vi phạm hành chính hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Câu 11. Bạo lực gia đình là gì?

TRẢ LỜI:

34 Bạo lực gia đình là hành vi cô ý của thành viên gia đình gây tôn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đói với thành viên khác trong gia đình.

*Câu 12. Có bao nhiêu hình thức bạo lực gia đính?

TRẢ LỜI:

Có 4 hình thức bạo lực gia đình chủ yếu gồm:

- Bạo lực về thân thể;

- Bạo lực về kinh tế;

- Bạo lực về tình dục;

- Bạo lực về tinh thần.

Câu 13: Người có hành vi bạo lực gia đình phải thực hiện nghĩa vụ gì theo quy định của pháp luật?

TRẢ LỜI

- Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực.

- Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

- Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.

- Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy đinh của pháp luật.

Câu 14. Nạn nhân bị bạo lực gia đình có quyền như thế nào theo quy định của pháp luật?

TRẢ LỜI

Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thấm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hơp pháp khác của mình.

Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này.

Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật.

Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của Luật này.

Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Câu 15. Nạn nhân bị bạo lực gia đình có nghĩa vụ như thế nào theo quy định của pháp luật?

35 TRẢ LỜI

Nạn nhân bị bạo lực gia đình có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tố chức người có thấm quyền khi có yêu cầu.

Câu 16: Cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm gì trong phòng, chong bạo lực gia đình?

TRẢ LỜI

Cá nhân: có trách nhiệm chấp hành pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bĩnh đẳng giới, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và thông báo cho cơ quan, tổ chức

Gia đình: có trách nhiệm giáo dục thành viên gia đình thực hiện pháp luật liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, hòa giải mâu thuẫn, can ngăn người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực, chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, phối họp với cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng, chống bạo lực gia đình và thực hiện các biện pháp khác phòng, chống bạo lực gia đình.

Các tổ chức đoàn thể: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, động viên hội viên và nhân dân chấp hành pháp luật liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, kiến nghị những biện pháp cần thiết với cơ quan nhà nước có liên quan để thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, tham gia phòng chống bạo lực gia đình, chăm sóc, hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình và tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.

…………………………….


Recommended